Cập nhật: 26/03/2017 17:08:00 Article Rating
Xem cỡ chữ

Theo số liệu của Cục Thống kê tỉnh, cuối năm 2013, dân tộc Sán Dìu ở tỉnh ta có 3.460 hộ với 12.206 nhân khẩu, đa phần sống ở hạ huyện Sơn Dương. Họ sống thành từng làng quần tụ dưới dãy núi Tam Đảo, là dân tộc thiểu số đông thứ 7 trong tỉnh. Người Sán Dìu được xếp vào ngữ hệ Hán-Tạng.

Người Sán Dìu có làm ruộng nước nhưng canh tác ruộng khô là chính. Ngoài các loại cây trồng thường thấy ở nhiều vùng như lúa, ngô, khoai, sắn..., họ còn trồng nhiều cây có củ. Nhờ đắp thêm mũi phụ, lưỡi cày của người Sán Dìu trở nên bền, sắc và thích hợp hơn với việc cày ở nơi đất cứng, nhiều sỏi đá. Người Sán Dìu ăn cơm tẻ là chính, có ăn thêm ngô, khoai, sắn. Sau bữa ăn, họ thường húp thêm bát cháo loãng. Cháo loãng được coi là thứ nước “giải khát” tốt nhất của người Sán Dìu và các gia đình ngày nào cũng phải nấu.

Trang phục truyền thống của dân tộc Sán Dìu.

Trang phục truyền thống của phụ nữ Sán Dìu gồm khăn đen, áo. Nếu là áo kép thì bao giờ chiếc bên trong cũng màu trắng còn chiếc bên ngoài màu chàm dài hơn một chút. Yếm của người Sán Dìu màu đỏ, thắt lưng màu trắng, hồng hay xanh lơ. Váy của phụ nữ hai mảnh rời cùng chung một cạp, chỉ dài quá gối có màu chàm, xà cạp màu chàm, xà cạp màu trắng. Đồ trang trí gồm vòng cổ, vòng tay, hoa tai và dây xà tích bằng bạc. Nam giới ăn mặc như người Kinh có búi tóc vấn khăn hoặc đội khăn xếp, áo dài thâm, quần trắng.

Dân tộc Sán Dìu thường sống tập trung ở trung du Bắc Bộ, đông nhất là quanh dãy núi Tam Đảo của Tuyên Quang và tỉnh Vĩnh Phúc. Làng xóm của họ tựa như làng người Kinh, có luỹ tre bao bọc và giữa các nhà thường có tường hay hàng rào. Nhà truyền thống theo lối 5 gian, trước kia là các cột chôn xuống đất. Chiếc xe quệt được coi là “sáng chế” của người Sán Dìu. Ngoài gánh họ còn sử dụng xe quệt như là một phương tiện vận chuyển chính. Xe làm bằng tre, gỗ do trâu kéo, có thể sử dụng ở nhiều loại địa hình khác nhau, rất thuận tiện.

Đám cưới của người Sán Dìu gồm nhiều nghi lễ. Đáng chú ý nhất có lễ “khai hoa tửu” diễn ra tại nhà gái, trước hôm cô dâu về nhà chồng. Người ta lấy một bình rượu và một cái đĩa, trên đĩa lót hai miếng giấy cắt hoa, miếng trắng để dưới, miếng đỏ để trên, đặt lên trên đĩa hai quả trứng luộc có xâu chỉ đỏ và buộc ở mỗi bên trứng hai đồng xu. Sau khi cúng thì bóc trứng lấy lòng đỏ hòa với rượu để mọi người uống mừng hạnh phúc của cô dâu, chú rể. Về ma chay, khi hạ huyệt, con cái phải từ phía chân quan tài bò một vòng quanh miệng huyệt. Con trai bò từ trái sang phải còn con gái bò từ phải sang trái, vừa bò vừa xô đất lấp huyệt. Lúc đứng dậy, mỗi người vốc một nắm đất và chạy thật nhanh về nhà bỏ vào chuồng trâu, chuồng lợn... với ý nghĩa cho gia súc sinh sôi, nảy nở. Tiếp đó chạy vào nhà và ngồi xuống thúng thóc với quan niệm ai dính nhiều thóc là may mắn. Khi cải táng, xương được xếp vào tiểu hoặc chum theo tư thế ngồi. 

Mỗi khi có ai làm nhà thì mọi người trong họ, trong làng tự đến giúp đỡ. Trong lễ lên nhà mới chủ nhà mời người cao tuổi trong họ đem lửa, bình vôi, ít hạt giống vào nhà. Trên bàn thờ người Sán Dìu thường đặt ba bát hương thờ tổ tiên, pháp sư và táo quân. Nếu chủ nhà chưa được cấp sắc thì chỉ có hai bát hương. Những người mới chết chưa kịp làm ma cũng đặt bát hương lên bàn thờ nhưng để thấp hơn. Ngoài ra, người Sán Dìu còn thờ thổ thần ở miếu thờ thành hoàng ở đình làng. Dân tộc Sán Dìu có những ngày tết như nhiều dân tộc ở trong vùng. Những người đã lấy nhau lâu mà vẫn chưa có con thì sau khi ăn tết xong người vợ về nhà bố mẹ đẻ ở. Người chồng cho ông mối đến hỏi và sau đó tổ chức cưới lại như là cưới vợ mới. Trước kia, thanh niên dân tộc Sán Dìu thường học chữ Hán để làm thầy cúng nhưng hiện nay còn rất ít người biết chữ Hán. Giống như ở nhiều dân tộc khác, người Sán Dìu cũng có hát giao duyên nam nữ mà họ gọi là soọng cô, thường được hát về đêm. Có những cuộc hát kéo dài suốt nhiều đêm.

Dân tộc Sán Dìu ở hạ huyện Sơn Dương giờ đã hội nhập sâu về kinh tế, xã hội với các dân tộc khác trong vùng nhưng vẫn giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc của mình. Từ sự khác biệt trong phong tục, tập quán, đời sống văn hóa đã góp phần tô điểm sự phong phú, đa dạng của 22 dân tộc anh em trong tỉnh.             

         

 

Sưu tầm

 

 

Tệp đính kèm