Giãn phế quản là tình trạng các phế quản bị giãn ra và khó hồi phục được. Đây là một tình trạng bệnh có những biến chứng nguy hiểm, đe dọa tính mạng người bệnh nếu không được điều trị và quản lý bệnh tốt.
Bệnh giãn phế quản có nguy hiểm không?
Trong những trường hợp rất nặng, sự giãn nở đường thở xảy ra ở cả hai phổi, ảnh hưởng lớn đến sự hô hấp. Ngoài ra, sự giãn nở này còn gây khó khăn cho việc đưa những chất tiết (đờm, chất nhầy) từ đường hô hấp dưới lên trên. Những chất tiết dính này là nơi cư trú lý tưởng cho sự sống và phát triển của nhiều loại vi khuẩn. Điều này dẫn đến nhiễm khuẩn, gây hại thêm đường hô hấp và làm giãn phế quản nhiều hơn. Chính vì thế đây là một vòng luẩn quẩn của bệnh giãn phế quản. Cũng giống như các bệnh phổi khác, giãn phế quản chiếm tỷ lệ người mắc phải khá cao.
Biến chứng nguy hiểm của bệnh giãn phế quản có thể gây ổ giãn phế quản lan rộng, bội nhiễm tái phát, áp xe phổi, mủ phổi, khí phế thũng, ho lẫn máu, ộc ra máu gây tắc nghẽn đường thở, suy tim trầm trọng làm người bệnh khó thở dẫn tới tử vong nhanh.
Làm cách nào nhận biết?
Triệu chứng thông thường nhất của giãn phế quản là ho, mà thường là có đờm. Thỉnh thoảng cơn ho có thể trở nên nghiêm trọng hơn và bệnh nhân có thể bị sốt, ớn lạnh, đổ mồ hôi trộm, mệt mỏi, đờm bị biến đổi về màu và về số lượng. Khi điều này xảy ra thì được gọi là đợt kịch phát của bệnh giãn phế quản.
Ho nhiều sẽ dẫn đến giãn phế quản.
Các triệu chứng khác có thể bao gồm: Thở gấp, hụt hơi hoặc khó thở, sụt cân không chủ ý, ho ra máu, tức ngực hoặc đau thắt ngực... Các triệu chứng này thường phát triển trong nhiều năm và trở nên tồi tệ hơn theo thời gian. Bệnh nhân giãn phế quản thường có biểu hiện khạc đờm, đặc biệt là vào buổi sáng. Tuy nhiên có người mắc bệnh giãn phế quản thể khô không khạc đờm.
Mặc dù giãn phế quản không thể hồi phục được, tuy nhiên nó có thể điều trị được để giảm triệu chứng, hạn chế sự tiến triển của các triệu chứng và giúp ngăn chặn vòng luẩn quẩn của việc nhiễm trùng lặp đi lặp lại.
Mặc dù giãn phế quản không thể hồi phục được, tuy nhiên bệnh có thể được điều trị để giảm, hạn chế sự tiến triển của các triệu chứng và giúp ngăn chặn vòng luẩn quẩn của việc nhiễm trùng lặp đi lặp lại.
Phòng bệnh có khó?
Khi đã mắc bệnh giãn phế quản thì việc điều trị khá tốn kém và phức tạp, vì vậy cần dự phòng để tránh mắc bệnh là rất cần thiết.
Trước hết cần tiêm vac-xin phòng ngừa bệnh cảm cúm, vì khi bị cảm cúm, sức đề kháng của cơ thể giảm sẽ rất dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn tai mũi họng và đường hô hấp mà hậu quả là bị giãn phế quản. Đối với trẻ em, cần tiêm phòng đầy đủ các mũi trong Chương trình tiêm chủng mở rộng để phòng các bệnh: Lao, sởi, bạch hầu, ho gà bởi nếu trẻ mắc các bệnh này rất dễ bị giãn phế quản lúc trưởng thành.
Khi bị các bệnh bẩm sinh hay mắc phải như: Polyp phế quản, dị vật đường thở, khối u lành tính hoặc ác tính ở phổi, lao sơ nhiễm, ápxe phổi, viêm phổi, viêm phế quản cấp và mạn tính, nhiễm khuẩn tai mũi họng... cần phải điều trị khỏi hẳn, có như thế mới tránh di chứng là nguyên nhân gây giãn phế quản sau này.
Đối với người làm việc trong môi trường phải tiếp xúc với hóa chất dễ bay hơi cần phải sử dụng các phương tiện bảo hộ lao động như đeo khẩu trang, đeo kính hoặc mặt nạ phòng độc.
Vệ sinh răng miệng hàng ngày, đeo khẩu trang khi ra đường hay ở nơi công cộng, để tránh lây nhiễm bệnh qua đường hô hấp, ngăn chặn hậu quả giãn phế quản.
Giữ ấm cơ thể, tránh để nhiễm lạnh, phòng ngừa vi khuẩn, virus xâm nhập vào cơ thể. Hạn chế tiếp xúc với môi trường ô nhiễm, nhiều khói bụi, ẩm thấp...
Ths. Nguyễn Thu Hiền
Theo suckhoedoisong.vn