Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) đang đề xuất hai phương án tăng dần tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện làm việc bình thường từ năm 2021. Lộ trình này sẽ thực hiện từ từ, cho tới lúc nam đủ 62 tuổi, nữ đủ 60 tuổi.
Ảnh minh họa: Duy Linh.
Không tăng tuổi nghỉ hưu quá đột ngột
Theo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, tăng tuổi nghỉ hưu cần tránh điều chỉnh đột ngột quá cao trong tương lai, bảo đảm góp phần ổn định chính trị - xã hội.
Trong dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) đang được trình lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân, Ban soạn thảo quy định nội dung này theo hai phương án để trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến.
Phương án 1: Kể từ ngày 1-1-2021, tuổi nghỉ hưu của NLĐ trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi ba tháng đối với nam và đủ 55 tuổi bốn tháng đối với nữ. Sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm ba tháng đối với nam và bốn tháng đối với nữ cho đến khi nam đủ 62 tuổi, nữ đủ 60 tuổi.
Phương án 2: Kể từ ngày 1-1-2021, tuổi nghỉ hưu của NLĐ trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi bốn tháng đối với nam và đủ 55 tuổi 6 tháng đối với nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm bốn tháng đối với nam và sáu tháng đối với nữ cho đến khi nam đủ 62 tuổi, nữ đủ 60 tuổi.
Ngoài ra, dự thảo Bộ luật cũng quy định quyền nghỉ hưu sớm hơn không quá năm tuổi đối với NLĐ bị suy giảm khả năng lao động; làm công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; và một số công việc, nghề nghiệp đặc biệt. Còn NLĐ có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, NLĐ làm công tác quản lý và một số trường hợp đặc biệt có quyền nghỉ hưu muộn hơn không quá năm tuổi.
Về việc xác định mốc tuổi, Ban soạn thảo đề xuất điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu của nam lên 62, nữ lên 60. Trước hết, điều này bảo đảm phù hợp với quy mô, cơ cấu, chất lượng, thể trạng sức khỏe và tuổi thọ của NLĐ Việt Nam
Việt Nam có quy mô, cơ cấu dân số đang thay đổi theo hướng tỷ lệ người trong độ tuổi có khả năng lao động giảm do tác động của quá trình già hóa dân số, tỷ lệ số người phụ thuộc đang tăng lên (44,4% vào năm 2019). Cùng với đó, chất lượng, thể trạng sức khỏe và tuổi thọ của NLĐ ngày càng tăng. Tuổi thọ bình quân của nam là 72,1 tuổi, của nữ là 81,3 tuổi; và cả hai giới là 76,6 tuổi, cao hơn tuổi thọ trung bình của dân số thế giới là 72 tuổi.
So sánh với các nước trong khu vực, Việt Nam đang có tuổi nghỉ hưu tương đối thấp, trong khi mức tuổi thọ ở tuổi 60 khá cao. Cụ thể, Việt Nam có tuổi thọ ở tuổi 60 là 22,5 năm, trong khi tuổi nghỉ hưu bình quân theo quy định chỉ là 57, tuổi nghỉ hưu bình quân trên thực tế chỉ khoảng 53,5. Trong khi, Malaysia có tuổi thọ ở tuổi 60 là 19,5 năm, tuổi nghỉ hưu bình quân là 60; Thái-lan có tuổi thọ ở tuổi 60 là 2một năm, tuổi nghỉ hưu bình quân là 60.
Số người tham gia thị trường lao động của Việt Nam trong những năm gần đây đang tăng chậm cả về số lượng và tỷ lệ. Thống kê của Tổng cục Thống kê cho thấy, cuối năm 2013, cả nước có 53 triệu lao động, cuối năm 2018 có 55 triệu lao động. Sau năm năm, chỉ tăng thêm hai triệu lao động. Trung bình mỗi năm chỉ tăng thêm 400 nghìn người. Lực lượng lao động Việt Nam không quá dồi dào như các đánh giá thông thường và sẽ đối mặt với nguy cơ thiếu hụt trong tương lai. Vì thế, quan trọng là hoàn thành lộ trình tăng tuổi nghỉ hưu trước khi Việt Nam đối mặt với tình trạng thiếu hụt lao động trong khoảng 20 năm tới do quá trình già hóa dân số
Tham khảo kinh nghiệm, thông lệ của các quốc gia trên thế giới quy định về xác định tuổi nghỉ hưu cho thấy, tuổi nghỉ hưu của các nước trên thế giới phổ biến là hơn 60 đối với nữ, hơn 62 đối với nam.
Thống kê của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về quy định tuổi nghỉ hưu của 176 quốc gia cho thấy, tuổi nghỉ hưu của nữ phổ biến từ 60-62 chiếm 37,5%. Tuổi nghỉ hưu của nam phổ biến từ 60-62 chiếm 47,2%.
Thêm nữa, nâng tuổi nghỉ hưu của nam lên 62 tuổi, nữ lên 60 tuổi là cần thiết, tránh phải điều chỉnh đột ngột lên mức quá cao trong tương lai. Hầu hết các quốc gia khi điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu đều có lộ trình, để thu hẹp dần khoảng cách về tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ.
Mục tiêu chung và lâu dài là tiến tới quy định tuổi nghỉ hưu của nam và nữ bằng nhau. Tuy nhiên, khi điều chỉnh, nhiều nước đang có tuổi nghỉ hưu nữ thấp hơn nam đã lựa chọn không quy định tuổi nghỉ hưu bằng nhau ngay, mà có lộ trình thu hẹp dần khoảng cách tuổi nghỉ hưu giữa các giới, nhằm tránh gây tác động tiêu cực do phải điều chỉnh quá nhiều tuổi nghỉ hưu của nữ so với nam.
Tránh gây "sốc" cho thị trường lao động
Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) lần này lựa chọn lộ trình điều chỉnh tăng dần tuổi nghỉ hưu, tức là tăng chậm, nhằm tránh gây "sốc" cho thị trường lao động.
Điều chỉnh tuổi nghỉ hưu là quyết sách có tính chiến lược về nhân lực, có tầm nhìn dài hạn, không phải là chính sách ngắn hạn. Kinh nghiệm của các quốc gia đang điều chỉnh tuổi nghỉ hưu và khuyến nghị của ILO là phải điều chỉnh dần dần để tránh gây sốc cho thị trường lao động.
Lộ trình thường thấy ở các nước là một năm tăng ba tháng, hoặc một số nước quy định, một năm tăng sáu tháng. Một số nước tăng theo lộ trình thận trọng hơn, như mỗi năm tăng một tháng, hoặc một năm tăng hai tháng.
Việc điều chỉnh tuổi nghỉ hưu dần dần dành thời gian cho NLĐ và doanh nghiệp thích nghi, mà còn cần cho thị trường lao động điều chỉnh. Nếu tăng nhanh, đột ngột sẽ dẫn đến sự gia tăng đột ngột số người thất nghiệp, có thể gây bất ổn xã hội.
Thứ nữa, lộ trình điều chỉnh tuổi chậm có tác động tốt hơn đến tâm lý xã hội của NLĐ và doanh nghiệp.
Lựa chọn phương án điều chỉnh nâng tuổi nghỉ hưu nhanh có thể dẫn đến số người thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao đột ngột, gây ra những vấn đề xã hội bức xúc. Nâng tuổi nghỉ hưu nhanh cũng có thể tạo ra tâm lý không hài lòng đối với một bộ phận lớn NLĐ, nhất là trong các doanh nghiệp. Nâng tuổi về hưu nhanh cũng có thể tạo ra tâm lý không hài lòng của cộng đồng doanh nghiệp, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đầu tư. Do đó, phương án điều chỉnh dần dần tuổi nghỉ hưu sẽ giúp doanh nghiệp và NLĐ thích ứng dần với quy định mới, không gây sốc cho cả doanh nghiệp và NLĐ, góp phần ổn định chính trị - xã hội.
Qua khảo sát, đánh giá và tham vấn ý kiến của các bên trong quá trình soạn thảo, đa số nghiêng về lựa chọn phương án 1. Phương án này được cho có ưu điểm hơn, phòng tránh cao hơn các rủi ro khi điều chỉnh tuổi đối với thị trường lao động, tránh gây sốc thị trường lao động, giữ ổn định xã hội và phù hợp với thông lệ quốc tế.
* Bộ luật Lao động của Việt Nam có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-1995. Tới nay, Bộ luật Lao động đã qua bốn lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 2002, 2006, 2007 và 2012.
Theo Nghị quyết số 57/2018/QH14, Dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi) sẽ được trình Quốc hội khóa XIV xem xét, cho ý kiến vào kỳ họp thứ 7 và thông qua tại kỳ họp thứ 8.
Theo NGÂN ANH/nhandan.com.vn