Cập nhật: 22/09/2021 15:15:00
Xem cỡ chữ

Về đầu tư, Nhật Bản là nhà đầu tư nước ngoài (FDI) lớn thứ 2 với 4.690 dự án có tổng vốn đầu tư đăng ký là 62,9 tỷ USD, chiếm khoảng 16% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong năm 2020, 2021 do ảnh hưởng của do đại dịch Covid-19 bùng phát nên gặp nhiều khó khăn. Mặc dù vậy, Việt Nam đã cố gắng nỗ lực duy trì việc thu hút vốn đầu tư trong và cả ngoài nước cả về chất và lượng. Nhiều nhà đầu tư vẫn duy trì hoạt động đầu tư, trong đó Nhật Bản là nhà đầu tư lớn duy nhất tăng trưởng vốn đầu tư.

Tình hình đầu tư nước ngoài vào Việt Nam

Trả lời phỏng vấn phóng viên VOV tại Nhật Bản, ông Tạ Đức Minh, tham tán thương mại Việt Nam tại Nhật Bản dẫn số liệu từ Bộ KHĐT cho biết, trong 8 tháng đầu 2021, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn - mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 19,1 tỷ USD, bằng 97,9% so với cùng kỳ năm 2020; trong đó vốn đăng ký mới tiếp tục duy trì đà tăng, vốn điều chỉnh tăng nhẹ trở lại sau khi giảm trong 7 tháng và góp vốn - mua cổ phần dù tiếp tục giảm song mức giảm cũng đang được cải thiện.

Hội thảo trực tuyến “Kết nối Đầu tư Việt Nam – Nhật Bản” ngày 22/9/2021.

Hội thảo trực tuyến “Kết nối Đầu tư Việt Nam – Nhật Bản” ngày 22/9/2021.

Các nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) đang tập trung đầu tư vào 58 tỉnh, thành phố trên cả nước. Xếp theo thứ tự: (1) Long An: tổng vốn đầu tư đăng ký trên 3,6 tỷ USD, chiếm 18,9% tổng vốn đầu tư đăng ký; (2) TP. HCM: gầ.n 2,2 tỷ USD, chiếm 11,4%; (3) Bình Dương: gần 1,7 tỷ USD, chiếm 8,7%. Tiếp theo lần lượt là Cần Thơ, Hải Phòng, Hà Nội…

Nếu xét về số dự án, các nhà ĐTNN vẫn tập trung đầu tư nhiều tại các thành phố lớn, có cơ sở hạ tầng thuận lợi như TP. HCM, Hà Nội, Bắc Ninh... Trong đó, TP. HCM dẫn đầu về số dự án mới (tỷ trọng 34%), số lượt dự án điều chỉnh (18,3%) và góp vốn – mua cổ phần (59,8%); Hà Nội xếp thứ 2 về số dự án mới (21,5%), số lượt dự án điều chỉnh (14,2%) và góp vốn – mua cổ phần (12,1%).

Cũng theo thống kê, trong 8 tháng qua, ước tính các dự án đã giải ngân được 11,6 tỷ USD, tăng 2% so với cùng kỳ năm 2020. Dịch Covid-19 hiện vẫn đang diễn biến phức tạp dẫn tới một số nhà máy bị ngưng hoặc giảm công suất, vốn thực hiện trong tháng 8/2021 giảm 12,2% so với tháng 8/2020 và giảm 14,3% so với tháng 7/2021. Tuy nhiên tính lũy kế 8 tháng vẫn có sự tăng nhẹ so với cùng kỳ năm 2020.

Có thể thấy tính đến thời điểm này của năm 2021, dòng vốn đầu tư FDI từ nước ngoài vào Việt Nam không nằm ngoài xu hướng ảm đạm, suy giảm chung của dòng vốn đầu tư FDI trên thế giới (do các tác động xấu từ dịch Covid-19). Tuy nhiên lượng vốn FDI vào Việt Nam nói chung chỉ suy giảm ở mức thấp so với cùng kỳ 2020, trong khi vốn FDI của Nhật Bản vào Việt Nam nói riêng lại có sự gia tăng.

Nhật Bản-quốc gia duy nhất tăng vốn đầu tư

Theo ông Tạ Đức Minh, hiện Nhật Bản là đối tác Thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam với tổng kim ngạch thương mại hai chiều năm 2020 đạt 40 tỷ USD; trong 7 tháng đầu năm 2021, kim ngạch XNK của Việt Nam với Nhật Bản đạt 24,5 tỷ USD, tăng 11,9% so với cùng kỳ năm 2020. 

Về đầu tư, Nhật Bản là nhà đầu tư nước ngoài (FDI) lớn thứ 2 với 4.690 dự án có tổng vốn đầu tư đăng ký là 62,9 tỷ USD, chiếm khoảng 16% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. 

Trong 8 tháng đầu năm 2021, trong số 92 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam, Nhật Bản có vốn đầu tư trên 3,2 tỷ USD, chiếm 16,8% tổng vốn đầu tư, tăng 94,9% so với cùng kỳ năm ngoái, chỉ sau Singapore với tổng vốn đầu tư trên 6,2 tỷ USD. Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây, thời gian này chỉ có Nhật Bản là tăng vốn đầu tư, còn Singapore và các đối tác lớn khác như Hàn Quốc…đều có có xu hướng giảm vốn đầu tư.

Xu hướng M&A trong thu hút đầu tư vào Việt Nam trong tình hình mới

Ông Tạ Đức Minh dẫn giải rằng, trong những năm gần đây, nền kinh tế thế giới chứng kiến làn sóng M&A diễn ra mạnh mẽ với quy mô lớn, không còn bó hẹp trong phạm vi các quốc gia có nền kinh tế phát triển mà đã lan toả sang các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển. Thị trường M&A tại Việt Nam cũng diễn ra sôi động với khá nhiều thương vụ lớn, trở thành điểm đến M&A hàng đầu tại khu vực Đông Nam Á. 

Trong xu thế dịch chuyển sản xuất ra khỏi Trung Quốc từ giữa năm 2020, nhiều nhà ĐTNN, trong đó có nhiều nhà đầu tư Nhật Bản chọn Việt Nam làm điểm đến chuyển hướng đầu tư kinh doanh. Các yếu tố giúp Việt Nam trở nên hấp dẫn gồm: sự ổn định chính trị, kinh tế 2020 đạt mức tăng trưởng dương trong bối cảnh hầu hết các nước tăng trưởng âm khi đại dịch Covid-19 lan rộng trên toàn cầu. Hơn nữa, với dân số gần 100 triệu dân, cùng với lực lượng lao động dồi dào, Việt Nam được coi là thị trường tiêu thụ lớn. Trong làn sóng chuyển hướng này, M&A ngày càng được coi trọng hơn với nguyên nhân chính là do việc xây dựng nhà máy lại từ đầu cũng khiến nhà đầu tư tốn nhiều thời gian, chi phí, vì vậy, việc tận dụng các nhà máy sẵn có của Việt Nam sẽ giúp nhà ĐTNN không bị gián đoạn, nhanh chóng vận hành hoạt động sản xuất kinh doanh.

Đối với khối ngoại, thị trường M&A tiếp tục được dẫn đầu bởi các nhà đầu tư đến từ 4 quốc gia là Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan và Singapore. Giai đoạn 2019–2020 ghi nhận nhiều thương vụ M&A của nhà đầu tư Nhật Bản trong các lĩnh vực chính là bất động sản, xây dựng, tài chính - ngân hàng và dược phẩm - y tế. Một số thương vụ M&A đáng chú ý của các nhà đầu tư Nhật Bản có thể kể đến như Mitsubishi Corporation và Nomura Real Estate mua lại 80% trong giai đoạn II Dự án Grand Park của Vingroup; Ngân hàng Aozora mua 15% cổ phần của Ngân hàng TMCP Phương Đông; Tập đoàn bất động sản Haseko mua 36% cổ phần của Công ty Xây dựng Ecoba; Công ty Dược phẩm ASKA mua 24,9% cổ phần của Công ty Dược Hà Tây…

Các chuyên gia dự báo quy mô thị trường M&A tại Việt Nam năm 2021 sẽ ở mức 4,5 - 5 tỷ USD, hồi phục trở lại tương đương mức bình quân giai đoạn 2014-2017. Các lĩnh vực hàng tiêu dùng, bán lẻ và bất động sản, công nghiệp, nông nghiệp vẫn sẽ là tâm điểm thu hút M&A, trong khi các lĩnh vực viễn thông, năng lượng, hạ tầng, dược phẩm, giáo dục được đánh giá có tiềm năng hứa hẹn trong một vài năm tới. Về đối tác, các nhà đầu tư từ châu Á, gồm Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan và Singapore được dự đoán sẽ tiếp tục chiếm ưu thế… 

Giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư nước ngoài

Trong thời gian qua có nhiều ý kiến cho rằng, dịch bệnh Covid-19, nhất là làn sóng lây nhiễm thứ 4 tại Việt Nam có thể làm gia tăng tâm lý phân vân, e ngại của giới đầu tư. Nhiều địa phương thực hiện giãn cách xã hội nghiêm ngặt, sản xuất của các nhà máy bị ngưng trệ, công nhân mất việc làm, chi phí logistic tăng cao khiến doanh nghiệp không có đủ hàng hoặc không kịp giao hàng cho đối tác dẫn đến bị phạt hợp đồng, chịu thiệt hại nặng nề. Các chuyên gia cảnh báo, nếu tình hình không được cải thiện với những giải pháp hiệu quả, sẽ xảy ra tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng, khiến một số doanh nghiệp sẽ rút khỏi thị trường Việt Nam.

Tuy vậy, ông Tạ Đức Minh đã đưa ra ý kiến cho rằng, Việt Nam phải nhìn nhận vấn đề này theo nhiều chiều hướng, và phải đặt trong mối tương quan so sánh với các đối thủ cạnh tranh của Việt Nam. Covid-19 là câu chuyện của toàn thế giới, chứ không riêng gì Việt Nam. Đúng là hiện nay Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn trong công tác kiểm soát dịch do biến chủng mới nhưng đây cũng là tình trạng chung của nhiều nước trong khu vực ASEAN. Bên cạnh đó, trong bối cảnh thu hút FDI sụt giảm mạnh trên phạm vi toàn cầu và trong khu vực, các nước láng giềng như Malaysia, Thái Lan… có tỷ lệ giảm mạnh hơn Việt Nam rất nhiều. Ngoài ra trong năm 2020, Việt Nam là một trong số rất ít các quốc gia có tăng trưởng kinh tế dương, đồng thời được đánh giá cao về hiệu quả chống dịch.

Để níu chân và thu hút thêm nhiều nhà ĐTNN, bên cạnh việc tiếp tục nâng cao hiệu quả chính sách, hoàn thiện môi trường đầu tư, Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương của Việt Nam cũng cần có sự linh hoạt hơn nữa trong công tác phòng, chống dịch bệnh. Trong đó không chỉ cần đẩy mạnh tốc độ và hiệu quả tiêm vaccine cho người lao động, giãn thuế - giảm thuế nhằm tạo điều kiện để doanh nghiệp ổn định sản xuất trở lại, sớm giải quyết các khó khăn về logistic và chuỗi cung ứng, giảm thiểu tối đa những tác hại bất lợi từ dịch Covid-19, Chính phủ cũng nên xem xét giảm thời gian giãn cách, đồng thời tạo thuận lợi để các chuyên gia, nhà ĐTNN đến Việt Nam làm việc, khảo sát môi trường đầu tư và triển khai dự án. “Trong nguy có cơ”, Việt Nam cần chuẩn bị sẵn sàng mọi điều kiện để khi dịch bệnh cơ bản được kiểm soát là có thể nhanh chóng hồi phục sản xuất kinh doanh, thu hút đầu tư trong bối cảnh các nhà ĐTNN đang tìm kiếm một điểm đến đầu tư an toàn và hiệu quả./.

Theo Bùi Hùng/VOV-Tokyo – 22/9/2021

https://vov.vn/kinh-te/nhat-ban-tang-truong-von-dau-tu-vao-viet-nam-bat-chap-dich-benh-covid-19-892587.vov