Tài nguyên nước không phải là vô tận, nhất là nguồn nước sạch đang ngày càng khan hiếm và đang bị đe dọa nghiêm trọng bởi mức độ ô nhiễm môi trường. Từ nhiều năm nay, tỉnh Vĩnh Phúc đã có nhiều giải pháp nhằm cung cấp nước an toàn và đầy đủ cho người dân. Tuy nhiên, có một nghịch lý là nơi được cung cấp nước thì không dùng, nơi cần thì người dân lại không có.
Nguồn nước ngầm, nước mặt tại nhiều vùng nông thôn của Vĩnh Phúc đang bị ô nhiễm với những mức độ khác nhau. Người dân đang mong mỏi có nguồn nước sạch để sử dụng nhằm đảm bảo sức khỏe, nâng cao chất lượng cuộc sống. Mặc dù đã được đào sâu đến hơn 40m, nhưng giếng nước của gia đình bà Nguyễn Thị Thìn ở thôn Mới, xã Tiên Lữ, huyện Lập Thạch luôn trong tình trạng cạn nước. Chỉ cần soi một chiếc đèn pin nhỏ là đã nhìn thấy đáy giếng. Mọi sinh hoạt của 7 người trong gia đình bà đều trông chờ vào những gánh nước đi xin từ những hộ dân ở ven đồng. Xin mãi thì ngại, mà không xin thì lại chẳng có nước để dùng.
Cũng từ nhiều năm nay, cứ vào mùa khô hanh là mọi sinh hoạt của hơn 350 cô, trò Trường Mầm non xã Tiên Lữ, huyện Lập Thạch trông chờ vào những gánh nước đi xin từ các hộ dân. Ngoài việc dạy trẻ thì công việc đi xin nước vào mỗi đầu giờ sáng và cuối buổi học đã trở thành công việc hàng ngày của các cô giáo ở đây. Nồi, chậu cũng được huy động làm dụng cụ chứa nước.
Hằng năm, tình trạng thiếu nước ở huyện Lập Thạch bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, nghĩa là gần nửa năm dòng dã người dân sẽ sống trong cảnh thiếu nước.
Hệ thống để tạo ra nguồn nước sinh hoạt của nhà ông Nguyễn Hữu Yến, thôn Hậu Lộc, xã Vĩnh Ninh, huyện Vĩnh Tường gồm một chiếc bể lọc với 2 tầng cát, 1 tầng đá, 1 tầng than để lọc nước bơm từ giếng khoan lên. Khi tạp chất được loại bỏ sẽ chuyển sang bể lắng trước khi bơm lên bồn chứa và đến máy lọc nước. Hệ thống quả lọc nước cũng được gia đình ông Yến thay mới liên tục để có nguồn nước dành riêng cho nấu ăn và uống. Mặc dù đã rất cẩn thận và đầu tư bài bản cho việc tạo ra nguồn nước sinh hoạt, thế nhưng chất lượng nước có thực sự đảm bảo hay không thì cũng không ai dám khẳng định.
Nhiều năm trở lại đây, chăn nuôi nhỏ lẻ, đặc biệt là chăn nuôi bò sữa phát triển mạnh nên tình trạng ô nhiễm môi trường, ô nhiễm nguồn nước mặt, nước ngầm ở các xã vùng ven Sông Hồng của huyện Vĩnh Tường càng trở nên trầm trọng hơn khiến cho nhu cầu nước sạch trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Giải pháp của đa số hộ dân ở đây đều là hứng nước mưa để sử dụng. Và những cơn mưa dù nhỏ, dù to cũng đã phần nào giải tỏa cơn khát của họ. Vậy nên, gia đình nào cũng có 2 bể là bể chứa nước mưa để nấu ăn và bể lọc nước giếng khoan để tắm giặt. Nước ăn và uống phụ thuộc chủ yếu vào ông trời, nên việc dùng nước mưa của người dân cũng hết sức tiết kiệm. Chất lượng nguồn nước sinh hoạt không đảm bảo khiến mọi thứ trở nên ố vàng. Mặc dù các hộ dân đã xử lý bằng cách lọc nhiều lần qua bể lắng và máy lọc nước, nhưng chất lượng nước vẫn không làm người dân yên tâm.
Nước sạch là nguồn sống, là mong muốn chính đáng và bức thiết của người dân. Hàng chục nghìn hộ dân ở khu vực nông thôn của Vĩnh Phúc vẫn từng ngày mòn mỏi chờ đợi được đấu nối nguồn nước sạch để sử dụng. Thế nhưng, dù có hay không, thì cuộc sống của họ vẫn phải duy trì. Tình trạng khan hiếm nguồn nước sạch khiến cho chất lượng cuộc sống của người dân không được đảm bảo thì ở nhiều nơi, dù đã có đường ống dẫn nước từ nhà máy về đến hộ gia đình nhưng người dân lại chưa mặn mà với nước sạch. Điều này dẫn đến nghịch lý là: nơi cần nước sạch thì không có, còn nơi có nước sạch người dân lại không dùng.
Do nguồn nước từ giếng khoan bị ô nhiễm nặng, nên hàng ngày, gia đình chị Ngô Thị Hồng ở thôn Nội, xã Tân Tiến huyện Vĩnh Tường phải trải qua 2 lần bơm, 2 lần lọc từ bể lọc thô đến máy lọc nước mới có nước để sử dụng. Hơn 3 năm nay, nguồn nước sạch đã được lắp đến tận cổng gia đình chị Hồng, chỉ cần đấu nối là sử dụng. Thế nhưng gia đình nhà chị vẫn dùng nước giếng khoan cho mọi sinh hoạt.
Năm 2018, Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn Vĩnh Phúc đã lắp đặt được gần 1.500 đồng hồ nước, tức là đã sẵn sàng cấp nước sạch cho 75% số hộ dân trong xã Tân Tiến, huyện Vĩnh Tường trên tổng số gần 2.000 hộ dân trong toàn xã theo chương trình nước sạch nông thôn. Toàn bộ đường ống dẫn nước và đồng hồ được lắp đặt miễn phí. Tuy nhiên, đến nay, mới chỉ có khoảng gần 30% số hộ được lắp đặt đồng hồ sử dụng nước sạch. Thậm chí, tại thôn Mới, đã có gần 1 nghìn hộ dân được lắp đặt đồng hồ nước, nhưng mới chỉ khoảng 100 hộ đang sử dụng.
Nằm trong dự án công trình cấp nước sạch liên 12 xã huyện Vĩnh Tường của Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn Vĩnh Phúc , năm 2019, đã có 1.819 hộ dân ở xã Đại Đồng được lắp đặt đường nước sạch và đồng hồ đo nước. Đơn vị cấp nước đã nhiều lần làm việc với chính quyền địa phương để thống nhất phương thức, giờ cấp nước cho các hộ dân có nhu cầu sử dụng. Các vòi nước đã vươn qua hàng rào, vào tận nhà dân. Nhưng đằng đẵng suốt 4 năm trời không một hộ dân nào đấu nối sử dụng. Chính vì vậy, tháng 7/2022, một biên bản thống nhất tạm dừng cấp nước cho người dân xã Đại Đồng được ban hành.
Điều đáng nói, là khi bỏ vốn đầu tư nhưng tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch quá ít đã gây lãng phí, thậm chí là thua lỗ cho các doanh nghiệp. Nhưng vì chính sách an sinh xã hội, các nhà máy này vẫn phải duy trì hoạt động. Nhà máy nước Yên Lạc, đặt tại thị trấn Yên Lạc do công ty Cổ phần Nước sạch số 1 Vĩnh Phúc quản lý, được đưa vào sử dụng từ năm 2007, có nhiệm vụ cung cấp nước sạch cho các hộ dân trên địa bàn thị trấn. Nhà máy được thiết kế có 4 máy bơm chính với công suất thiết kế hơn 2.500m3/ ngày đêm. Nhưng do nhu cầu sử dụng ít, nên hơn chục năm nay, nhà máy chỉ vận hành một máy bơm. Và hệ thống lọc nước của nhà máy cũng chỉ hoạt động trong khoảng 4 đến 5 tiếng/ngày với khoảng 200m3 được sản xuất. Số nước này cung cấp cho khoảng gần 200 hộ trên địa bàn thị trấn. Nếu tính bài toán kinh tế, tiền nước thu về mỗi tháng chưa đầy 20 triệu, trong khi nhà máy phải chi phí tiền điện, hóa chất và 8 nhân công vận hành, quản lý.
Thị trấn Yên Lạc có làng nghề mộc phát triển mạnh nhưng tỷ lệ người dân sử dụng nước sạch mới chỉ đạt gần 6% trên tổng số dân. Để đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống cho 1 đô thị loại V, ngay khi đi vào hoạt động, Nhà máy cung cấp nước sạch này đã lắp đặt đồng hồ nước miễn phí đến các hộ dân. Tuy nhiên, đến nay chỉ có 160 hộ đang sử dụng nguồn nước sạch do nhà máy cấp. Các hộ dân còn lại, vẫn phải tìm cách lọc nước giếng dù đã có đường ống nước sạch chờ sẵn. Với họ, nước máy chỉ để dự phòng.
Vĩnh Phúc có 57 công trình, nhà máy cung cấp nước sạch tập trung quy mô cấp vùng, cấp xã, thôn, với tổng công suất thiết kế gần 163 nghìn m3/ngày đêm. Tuy nhiên, công suất khai thác thực tế chỉ đạt 64,05%, riêng vùng nông thôn mới chỉ đạt gần 46% công suất thiết kế. Lãng phí công suất, lãng phí cơ sở vật chất và nguồn lực là tình trạng chung của nhiều đơn vị cấp nước trong tỉnh. Thậm chí, tại nhiều vùng, tỷ lệ số đồng hồ không ra hóa đơn hàng tháng chiếm từ 50 đến 60%, tức là có đến hơn nửa số dân được đấu nối nước nhưng không sử dụng.
Lãng phí là điều mà ai cũng thấy, lãng phí tiền của từ những nhà máy đã xây dựng nhưng nay bị hoang hóa vì không thể vận hành, lãng phí nguồn tài nguyên nước từ việc có nước sạch đến tận hộ gia đình mà người dân lại không sử dụng. Các cấp chính quyền, các doanh nghiệp, đơn vị đầu tư nhà máy nước cho đến người dân ai ai cũng nhận thức được điều đó, nhưng việc giải bài toán này là cả một câu chuyện không dễ dàng.
Nước sạch, kể cả nguồn nước ngầm không phải là vô tận. Nguồn nước có đảm bảo an toàn, có đủ phục vụ chính chúng ta cho hôm nay và mai sau hay không phụ thuộc rất lớn vào nhận thức, trách nhiệm và hàng động của mỗi người. Sử dụng nước tiết kiệm, hợp lý và không làm ô nhiễm nguồn nước là việc làm cần làm ngay.
Lỗ Hiếu