Theo các nhà khoa học, u não là thuật ngữ thường được dùng có tính cách quy ước để chỉ các khối u hình thành ở trong sọ não. Trên thực tế, u não thường phát hiện muộn nên biện pháp xử trí gặp rất nhiều khó khăn, tiên lượng xấu và hậu quả để lại cũng khá tồi tệ.
Đặc điểm của u não
U não bao gồm nhiều loại khác nhau, trong đó u trong mô não chiếm trên dưới 50% các khối u ở trong sọ não; số còn lại là các khối u bắt nguồn từ màng não, dây thần kinh sọ não, tuyến yên, các khối u di căn... Các khối u ở trong sọ não, đặc biệt là u của mô não thường có tiến triển chậm, não sẽ có thời gian để thích nghi dần đến một mức độ nhất định bằng cách thải bớt nước mà mô não chứa đựng nhiều hơn các mô khác; các triệu chứng lâm sàng cũng sẽ xuất hiện từ từ và diễn biến âm ỉ. Nếu u có tính thâm nhiễm và phát triển nhanh thì bệnh cảnh lâm sàng sẽ nặng nề và diễn biến rõ rệt hơn, loại u não này thường gây chèn ép hệ tuần hoàn ở chung quanh, tạo nên tình trạng phù não do cơ chế mạch máu. Ngoài ra, một số loại u có nang dịch ở bên trong, các mạch máu tăng sinh nhiều, dễ gây chảy máu bên trong u làm cho bệnh lý diễn biến giống một bệnh cấp tính vì hội chứng tăng áp lực trong sọ sẵn có hay tăng đột ngột. Thực tế hộp sọ có một khoảng dung tích kín được chia thành nhiều khoang, ngăn cách bởi các vách như liềm não, lều tiểu não; áp lực trong các khoang sẽ không bằng nhau do xuất hiện khối u, hậu quả là mô não bị đẩy từ khoang này sang khoang kia để căn bằng áp lực như trường hợp mô não ở bán cầu não có khối u bị đẩy lọt qua dưới liềm não sang phía đối diện, hồi hải mã thùy thái dương lọt qua bờ tự do của lều tiểu não, hạnh nhân tiểu não lọt vào lỗ chẩm; đây là các hình thái “tụt não” với những hậu quả rất nghiêm trọng, nhiều khi có thể dẫn đến tử vong.
Triệu chứng của u não
U não thường biểu hiện 3 loại triệu chứng gồm: những triệu chứng chung với dấu hiệu cơ bản là động kinh, tăng áp lực trong sọ não; những triệu chứng liên quan đến tính chất mô học của khối u và những triệu chứng do vị trí của khối u tạo nên.
Những triệu chứng chung được ghi nhận trong khoảng 40% các trường hợp bị u não là động kinh và tăng áp lực trong sọ não. Cơn động kinh là dấu hiệu đầu tiên của triệu chứng chung gợi ý nghĩ đến bệnh lý u não nhưng trên thực tế ở nước ta hiện nay triệu chứng bệnh lý này chưa được phát hiện nhiều. Hội chứng tăng áp lực trong sọ não là tập hợp các dấu hiệu chứng tỏ có một khối u choán chỗ trong hộp sọ gây nhức đầu lan tỏa, càng về sau càng trở nên dữ dội và liên tục, bệnh nhân có thể bị nôn mửa một cách dễ dàng từ khi ngủ dậy, bị phù gai thị giác, trạng thái tâm thần chậm chạp. Những triệu chứng cận lâm sàng có thể gợi ý nghĩ đến u não như: dấu ấn ngón tay trên phim chụp X-quang sọ não thông thường; trên phim chụp được có thể thấy lưng hố yên bị hao mòn, khuyết sọ hoặc xương sọ quá sản; có các đám ngấm vôi bất thường và hình tuyến tùng quả ngấm vôi lệch khỏi vị trí bình thường là những dấu hiệu có giá trị trong chẩn đoán nhưng ở nước ta hiện tượng ngấm vôi ít gặp hơn các nước khác.
Những triệu chứng liên quan đến tính chất mô học của khối u cũng có sự khác biệt. Đối với những khối u ác tính như u nguyên bào thần kinh đệm thường có bệnh sử ngắn, bệnh cảnh tiến triển khá nhanh vì khối u thâm nhiễm và gây những rối loạn huyết động học tạo nên phù não mạch. Đối với những khối u lành tính, đặc biệt là u màng não thường tiến triển rất chậm trong nhiều năm, u có rất nhiều mạch máu tăng sinh. Ở nước ta do nhiều trường hợp bệnh nhân được phát hiện, chẩn đoán muộn nên khối u có thể đạt đến kích thước lớn không ngờ. Cả hai loại khối u ác tính và lành tính thường gặp ở bệnh nhân ở tuổi trưởng thành, có khi thấy ở tuổi trung niên; đối với trẻ em trước tuổi đi học, đa số khối u thường phát triển ở hố sau; các u sọ hầu như cũng thường gặp ở trẻ em vì thường là khối u bẩm sinh.
Những triệu chứng do vị trí của khối u tạo nên có biểu hiện khác nhau. Các khối u ở thùy trán tương đối khá phổ biến vì một lý do rất dễ hiểu là kích thước của thùy này lớn hơn so với các thùy khác. Thực tế nhờ tổng hợp các triệu chứng khu trú nên có thể định hướng một chẩn đoán u não định khu, có nghĩa là sơ bộ có thể xác định được vị trí của khối u trong hộp sọ và trong mô não.
Kỹ thuật chẩn đoán và điều trị u não
Ngoài triệu chứng lâm sàng được ghi nhận, để chẩn đoán u não các nhà khoa học đã sử dụng những phương tiện kỹ thuật cần thiết như: chụp phim X-quang không chuẩn bị, siêu âm não, ghi xạ hình não, ghi điện não, chụp cắt lớp điện toán, ghi hình cộng hưởng từ các hạt nhân, chụp cắt lớp não bằng cách phát positron, ghi từ trường não... Hiện nay chính nhờ những thành tựu của khoa học và y học được ứng dụng trong việc chẩn đoán bệnh, thay thế dần cho các phương tiện và kỹ thuật cũ nên bệnh lý u não ngày càng được phát hiện, chẩn đoán một cách dễ dàng, chính xác hơn.
Về điều trị, có 5 phương pháp hiện nay được áp dụng trong việc xử trí can thiệp các trường hợp bệnh nhân bị u não gồm: phẫu thuật, dùng tia phóng xạ, sử dụng hóa chất, dùng thuốc corticoide và liệu pháp miễn dịch. Nếu người bệnh bị u não loại ác tính, thường áp dụng phối hợp điều trị cùng một lúc từ 2 - 3 phương pháp mới có thể đạt được hiệu quả.
BS. NGUYỄN TRÂM ANH
Theo suckhoedoisong.vn