Những nhà giàn DK1 vững vàng giữa ngàn khơi trên thềm lục địa Tổ quốc trong suốt 30 năm qua (5/7/1989 - 5/7/2019), không chỉ khẳng định sức kiên cường bám trụ của các cán bộ, chiến sĩ quyết tâm giữ vững chủ quyền vùng biển của Tổ quốc, mà còn khẳng định đó là chủ quyền “bất khả xâm phạm”. Trong 30 năm nhiều thăng trầm ấy, các thế hệ cán bộ chiến sĩ DK1 đã hoàn thành sứ mệnh của người lính hải quân với Tổ quốc và nhân dân.
BÀI 1: “NHỮNG PHÁO ĐÀI ĐỘC NHẤT VÔ NHỊ”
Với tư cách là cột mốc chủ quyền, các nhà giàn DK1 hiện đang đứng chân ngoài thềm lục địa phía Nam được coi là “những pháo đài độc nhất vô nhị”, bởi chưa có một quốc gia nào có lực lượng quốc phòng nhân dân lại sống canh giữ và cầm súng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trên sóng đại dương như các chiến sĩ DK1. Mặt khác, suốt 30 năm qua, những nhà giàn DK1 ấy không chỉ là những “pháo đài” canh biển, đó còn là điểm tựa vững chắc cho ngư dân ra khai thác đánh bắt hải sản trên thềm lục địa phía Nam.
Một trong những nhà giàn DK1 hiện nay và đó được xem là những "pháo đài độc đáo" giữa trùng khơi Ảnh: TRẦN HUẤN
Chủ nhân trên những “pháo đài độc, lạ” này là cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn DK1 Vùng 2 Hải quân, những người được coi là bia chủ quyền sống, sinh tử với biển, có sức bám trụ kiên cường và tinh thần thép.
Thế hệ cán bộ chiến sĩ Hải quân hôm nay không thể không nhắc tới một vị tướng có tầm nhìn chiến lược về biển đảo, cố Thượng tướng Đô đốc Giáp Văn Cương, người đã khai sinh ra nhà giàn DK1. Năm 1989, tướng Cương lúc đó giữ cương vị Tư lệnh Hải quân. Vào thời điểm cách đây ba thập kỷ ông đã nhận thấy các giàn khoan dầu khí hoạt động nhất thiết phải có lực lượng bảo vệ vòng ngoài. Lực lượng này phải sử dụng Bộ đội Hải quân, đủ sức mạnh, am hiểu về biển đảo. Việc triển khai Hải quân ra trấn giữ theo “vòng cung” từ hướng biển trên phần thềm lục địa của Tổ quốc là đỉnh cao “chiến lược phòng thủ biển”, vừa bảo vệ an toàn cho các giàn khoan dầu khí hoạt động, khai thác và phát triển kinh tế biển trong tương lai, vừa có tầm chiến lược lâu dài, bảo vệ đất nước từ hướng biển.
Ngay từ năm 1985, tướng Cương đề xuất ý tưởng xây dựng nhà giàn DK1 với lý do: Trong tương lai gần, vùng biển khu vực Trường Sa cần được bảo vệ vững chắc, vì thế việc xây dựng các nhà giàn trên các bãi san hô ngầm là một tất yếu. Tiếp đó, việc xây dựng nhà giàn là xuất phát từ thực tiễn tổng kết lịch sử trong chiến tranh vệ quốc của Việt Nam. Có bảo vệ Tổ quốc vững chãi từ hướng biển, mới bảo đảm cho nền hòa bình vững chắc, để phát triển đất nước từ nội lực. Ngay sau đó, Đô đốc Giáp Văn Cương đã mạnh dạn kiến nghị với Bộ Quốc phòng và Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) xem xét, chấp thuận về việc khảo sát, xây dựng các nhà nổi kiểu boong tong trên các bãi san hô ngầm, từ Bãi cạn Ba Kè (giáp quần đảo Trường Sa) đến Bãi cạn Cà Mau (biển Cà Mau tỉnh Minh Hải, nay là tỉnh Cà Mau). Sau khi có quyết định của Chính phủ, Bộ Quốc phòng đã giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Hải quân và Bộ Tư lệnh Công binh thăm dò, khảo sát và tiến hành xây dựng các nhà giàn trên các bãi san hô ngầm.
Nhà giàn thế hệ đầu tiên thiết kế dạng pông-tông đóng trên bãi cạn Phúc Tần, ảnh tư liệu
Cột mốc đặc biệt
Nhà giàn DK1 được gọi với tư cách là “Cột mốc chủ quyền quốc gia đặc biệt trên biển”. Những cột mốc này được xây dựng không phải đường biên mà dựa trên “tiêu chí” Luật biển quốc tế quy định. Việc xây dựng các Nhà giàn DK1 với mục đích chính là bảo vệ Tổ quốc từ hướng biển, đồng thời công bố với thế giới, đây là chủ quyền thềm lục địa của Việt Nam. Tên dân sự của các nhà giàn DK1 gọi là “Trạm dịch vụ kinh tế - khoa học - kỹ thuật”, nơi sinh sống, huấn luyện, học tập, bảo vệ vùng trời, vùng biển của cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn DK1.
Ngày 5.7.1989, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra Chỉ thị số 180 về việc xây dựng Cụm Dịch vụ kinh tế - khoa học - kỹ thuật thuộc đặc khu Vũng Tàu-Côn Đảo (tức nhà giàn DK1). Và ngày này đã trở thành sinh nhật của nhà giàn.
Sau khi có quyết định của Chính phủ, Bộ Quốc phòng đã giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Hải quân và Bộ Tư lệnh Công binh thăm dò, khảo sát và tiến hành xây dựng các nhà giàn trên các bãi san hô ngầm. Ngày 6.11.1988, biên đội tàu HQ-713 và HQ-668 do trung tá Phạm Xuân Hoa, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 171 Hải quân chỉ huy cùng đoàn khảo sát đã vượt sóng ra thềm lục địa. Sau gần 7 tháng khảo sát, ngày 10.6.1989, nhà giàn đầu tiên mang phiên hiệu Phúc Tần trụ giữa biển Đông với tư cách là “cột mốc chủ quyền quốc gia đặc biệt trên biển”.
Chấp hành mệnh lệnh, con tàu mang phiên hiệu HQ-668 của Hải đội 811 Lữ đoàn 171 chở 15 cán bộ, chiến sĩ vượt sóng thềm lục địa, đánh dấu tọa độ, đo độ sâu, khảo sát các bãi san hô ngầm xúc tiến cho việc đóng nhà giàn DK1 đầu tiên ở bãi cạn Phúc Tần. Ra đi trong gió mùa đông bắc tràn về, biển động dữ dội, con tàu nhỏ bé cứ chồm lên ngụp xuống trong sóng và ngược gió. “Hoàn thành nhiệm vụ, trở về đất liền an toàn”, họ ra đi với lòng quyết tâm như thế.
Nhóm thợ lặn kiểm tra dòng chảy quanh chân đế nhà giàn DK1
Trung tá Nguyễn Tiến Cường, nguyên Trợ lý kế hoạch tổng hợp của Bộ Tư lệnh Vùng 2 Hải quân (năm đó anh Cường đeo quân hàm thượng úy), thuyền trưởng tàu HQ- 668 kể lại: “Tàu HQ-668 được mệnh danh là con tàu “lá tre” bởi đây là tàu nhỏ nhất của Hải đội 811. Thời kỳ ấy, tàu Hải quân chưa hiện đại như bây giờ, chủ yếu là tàu vỏ sắt nhiều chủng loại. Riêng tàu HQ- 668 tiếp nhận về nguyên gốc từ tàu cá. Với trọng tải 150 tấn, con tàu gỗ nhỏ bé này chật chội không kê được giường. Chiều ngày 6.11.1988, tạm biệt vợ mới cưới, anh Cường xuống tàu ra đi. Chị Thủy tiễn chồng ra tận cầu cảng. Thay những lời dặn dò chồng là đôi mắt đỏ hoe. Nhìn vợ, Cường bảo “Biển rộng lớn nhưng nhất định anh sẽ về”, rồi bước chân xuống tàu. Cùng tiễn chồng xuống cảng hôm ấy, có nhiều người vợ trẻ. Cuộc chia tay bịn rịn ngay trên cầu cảng, những giọt nước mắt, những lời dặn dò lưu luyến của người đi, người ở xúc động nghẹn ngào.
Dưới sự chỉ huy của trung tá Phạm Xuân Hoa, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 171, biên đội tàu HQ-668 do thượng úy Nguyễn Tiến Cường làm thuyền trưởng, tàu HQ-713 do thượng úy Nguyễn Hồng Thưởng làm thuyền trưởng hành trình từ cảng Vũng Tàu ra thềm lục địa. Phương tiện duy nhất trong chuyến hải trình này là chiếc la bàn từ, 2 cuộn dây, 6 cây sào tre để đo độ sâu. Khi ra khỏi cửa biển Vũng Tàu, biên đội tàu gặp phải sóng to gió lớn. Con tàu nhỏ bé chồm lên ngụp xuống trong sóng và ngược gió, có lúc chỉ tiến được 2-3 hải lý/giờ. Đúng lúc đó gió mùa đông bắc tràn về, càng làm cho sóng dữ dội. Tất cả các thủy thủ đều say sóng.
Trung tá Nguyễn Tiến Cường, nguyên thuyền trưởng tàu HQ668
“Pháo đài” đầu tiên trên biển
Sau khi tìm được bãi cạn và tọa độ xây dựng Nhà giàn, ngày 26.11.1988 hai biên đội tàu HQ-713 và HQ- 668 của Lữ đoàn 171 dưới sự chỉ huy của Lữ đoàn phó chính trị Trung tá Hoàng Kim Nông, biên đội tàu HQ- 727, HQ-723 của Hải đoàn 129 do trung tá Trần Xuân Vọng chỉ huy hành trình ra các bãi cạn đã được đánh dấu từ trước và tổ chức canh gác tại đây.
Giữa biển mênh mông sóng dữ, đời sống của các chiến sĩ vô cùng khó khăn gian khổ. Thức ăn lúc đó chủ yếu là rau muống phơi khô và đồ hộp. Do sóng lớn, toàn bộ khoang nước ngọt dưới hầm tàu bị nhiễm mặn hòa lẫn với gỉ sét. Các chiến sĩ đã dùng áo lót căng lên mặt xô, lọc nước nhiễm gỉ sét, hoặc gạn lắng nước trong để nấu cơm. Vì không có nước ngọt nên các chiến sĩ không có “kế hoạch” tắm. Tất cả tắm bằng nước biển, nước ngọt chỉ tráng sau cùng. Vì thiếu nước ngọt, có chiến sĩ cả tháng không đánh răng, họ chấp nhận sống đời “ngư phủ”.
Đô đốc Giáp Văn Cương (thứ 2 bên trái) thăm chiến sĩ nhà giàn Ba Kè A năm 1989, hơn một năm sau, nhà giàn này bị đánh sập. Ảnh tư liệu Lữ đoàn 171
Nghĩ lại những ngày gian khó ấy, anh Cường tâm sự: “Ngày ấy, những lúc thảnh thơi, ngồi trên mũi tàu nhớ nhìn về phía chân trời nhớ nhà vô cùng. Tuy không ai nói câu gì, nhưng trong thâm tâm ai cũng suy nghĩ, giờ này vợ con mình làm gì, ở đâu? Và nếu mình có hy sinh thì ai là người thay mình gánh vác gia đình. Những điếu thuốc Đà Lạt chuyền tay nhau, ca nước ngọt sẻ chia, những câu chuyện tiếu lâm phá tan dòng suy nghĩ. Sau những giây phút trầm tư ấy, là sự lo toan cho con tàu, trước sóng và gió mùa Đông bắc tràn về”.
Tháng 5.1989, các biên đội tàu của Lữ đoàn 171 và của Hải đoàn 129 phối hợp với tàu kéo chuyên dụng của Bộ GTVT bắt đầu chở khung nhà giàn cùng vật liệu sắt thép vượt sóng ra bãi cạn Phúc Tần. Công việc đầu tiên là dọn bãi đặt chân đế pông-tông. Những người thợ lặn đeo bình ôxy, mặc áo nhái lặn sâu xuống đáy biển, dùng vật chuyên dùng san phẳng bãi san hô rồi khoét sâu một lỗ rộng chừng 60 m để đặt khối pông-tông vào đó. Khối pông-tông kết cấu bằng thép, bán kính chừng 16 m, bơm đầy xi măng vào trong, đánh chìm xuống đáy. Những người thợ lặn vừa phải chống chọi với dòng chảy, vừa “lái” khối pông-tông vào đúng lỗ đã được đào sẵn. Kết nối giữa khối pông-tông và bốn cọc cắm sâu vào san hô là bốn sợi dây xích siêu bền, chịu được sóng to, dòng chảy mạnh. Công đoạn thứ hai là kết nối pông-tông và khối thượng tầng. Những người lính công binh lại ngụp lặn trong lòng biển để làm những công việc “độc nhất vô nhị” này.
Sau hơn một tháng chạy đua với sóng gió, ngày 10.6.1989, nhà giàn đầu tiên với tên gọi Phúc Tần hiện hữu giữa Thềm lục địa phía Nam Tổ quốc. Toàn bộ cán bộ, chiến sĩ công binh và những người thợ lặn nhìn nhà giàn mà trào nước mắt, những giọt nước mắt sung sướng và tự hào khôn xiết.
Theo TRẦN MẠNH TUẤN/baovanhoa.vn