Vào dịp Tết hay trong các lễ cưới truyền thống, người Mông Yên Bái thường hát dân ca và múa khèn, những làn điệu hát ru, hát đối, hát đố, hát giải, dân vũ... phản ánh khát vọng chinh phục tự nhiên.
Trang phục của phụ nữ Mông ở Mù Cang Chải ngày nay vẫn giữ nguyên vẹn bản sắc văn hóa dân tộc. (Ảnh: Tuấn Anh/TTXVN)
Trong dòng chảy của cuộc sống hiện đại, dân tộc Mông ở Yên Bái là một trong những dân tộc còn bảo lưu được nhiều sắc thái văn hóa độc đáo. Những giá trị văn hóa ấy luôn được các thế hệ người Mông nơi đây tự hào, gìn giữ, phát huy và bảo tồn cùng với tình yêu quê hương, xứ sở.
Với khoảng trên 110.000 nhân khẩu, dân tộc Mông ở Yên Bái đứng thứ tư về số dân trong tỉnh gồm 4 nhóm chính là Mông Hoa (Mông Lềnh), Mông Đen (Mông Đu), Mông Trắng (Mông Đơ) và Mông Si (Mông Đỏ). Trong đó, người Mông Hoa và Mông Si chiếm đa số, họ sống trên các triền núi cao, tập trung tại các huyện vùng cao Mù Cang Chải, Trạm Tấu, Văn Chấn...
Tiếng nói của người Mông thuộc nhóm ngôn ngữ Mông-Dao (dòng ngôn ngữ Nam Á).
Lễ hội gắn với nghệ thuật dân gian
Có thể nói, cuộc sống của người Mông ở Yên Bái gắn liền với dân ca, dân vũ, nhạc cụ và các lễ hội mang tính cộng đồng được tổ chức hằng năm.
Lễ hội trong năm của đồng bào Mông phải kể tới gồm có lễ hội Tầu sừ được tổ chức vào dịp Tết người Mông; lễ Nào xông của cộng đồng bản, diễn ra vào ngày Thìn tháng Giêng hàng năm; lễ Tết rừng tổ chức vào ngày 28 tháng Giêng hàng năm...
Đặc biệt là Lễ cúng cơm mới tiếng Mông gọi là “Nào máo blề xa” và lễ hội Gầu tào được tổ chức vào dịp đón Năm mới.
Ông Lý Kim Khoa, Phó Giám đốc Bảo tàng tỉnh Yên Bái cho biết Gầu tào là lễ hội quan trọng nhất đối với người Mông ở Yên Bái, với mục đích để gia chủ cầu con và gắn với cộng đồng là cầu cho mùa màng tươi tốt, người yên vật thịnh.
Lễ hội Gầu tào còn là dịp diễn xướng của vũ điệu khèn Mông, cùng các điệu lý mời rượu, những câu hát dân ca xốn xang và mời gọi.
Linh thiêng không kém là Lễ cúng cơm mới, người Mông tổ chức nghi lễ này nhằm cảm ơn tổ tiên, trời đất cho mưa thuận gió hòa, tránh được dịch bệnh, có được vụ mùa bội thu, cả năm no đủ, mọi người khỏe mạnh.
Thiếu nữ Mông ở Mù Cang Chải trong bộ trang phục truyền thống do chính tay mình làm ra. (Ảnh: Tuấn Anh/TTXVN)
Vào dịp Tết hay trong các lễ cưới truyền thống, người Mông đều hát dân ca và múa khèn. Nhiều làn điệu dân ca hát ru, hát đối, hát đố, hát giải, dân vũ... phản ánh cuộc sống lao động, chinh phục tự nhiên và mong ước mơ về cuộc sống hạnh phúc, no đủ.
Đặc sắc nhất là loại hát kể chuyện lịch sử dân tộc gọi là hát “Thản chù;” hát “Gầu phềnh” - trai gái hát trong khi chơi Pa Pao, hát qua sợi chỉ nối với hai ống nứa bịt da ếch cho riêng hai người.
Theo bà Dương Phương Thảo, Trưởng Phòng Văn hóa-Thông tin huyện Trạm Tấu (Yên Bái), hát Gầu Phềnh thường được diễn xướng vào dịp vui Xuân, đón Tết. Đây là hình thức hát giao duyên với lời ca dí dỏm, tình tứ, giàu tính ước lệ và mang âm điệu miên man, say đắm.
Đặc biệt, trong đám cưới, người Mông ở vùng núi cao Mù Cang Chải, Trạm Tấu còn có hát đối đáp, hát đố, hát giải. Hát đối đáp trong đám cưới của người Mông luôn thể hiện sự khiêm nhường của cả nhà trai cũng như nhà gái trong cách đối nhân xử thế.
Một đám cưới của người Mông thường có tất cả 16 bài hát gồm hát mở đầu, hát lên đường, hát mời rượu, hát mở cửa, hát giấu chìa khóa, hát giải đố, hát giao lễ vật, hát đối…
Cùng với ca hát, đồng bào Mông ở đây còn có múa khèn rất đặc sắc. Trong hội Gầu tào, múa khèn là nghi lễ mở hội. Ngoài khèn bè, người Mông còn sử dụng đàn môi, khèn lá, kéo nhị, thổi sáo…
Tiến sỹ Nguyễn Văn Quang, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Yên Bái cho biết, cây khèn luôn là vật bất ly thân với người đàn ông dân tộc Mông. Nhờ cây khèn độc đáo này, người Mông không chỉ thổ lộ tâm tình qua âm điệu du dương, trầm bổng mà còn là đạo cụ sinh động, giàu tạo hình trong những động tác điêu nghệ và mạnh mẽ của vũ điệu "Tha kệnh.”
Múa khèn thể hiện tinh thần thượng võ, ý chí kiên cường của người đàn ông miền sơn cước.
Phong tục, tập quán và tín ngưỡng dân gian
Người Mông ở Yên Bái có tín ngưỡng dân gian vô cùng phong phú và đặc sắc, ngoài thờ cúng tổ tiên, trong phạm vi ngôi nhà đồng bào Mông còn thờ cả một hệ thống các thần bảo hộ như thần tài (xử cang), thần cột nhà “Bùa đăngz,” thần cửa “Bùa trùngz,” thần bếp…
Tiến sỹ Hoàng Tiến Long, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Yên Bái cho biết, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mông đặc biệt quan trọng và khác so với một số dân tộc thiểu số khác, đồng bào không có bàn thờ tổ tiên riêng mà mỗi khi có lễ cúng tổ tiên, người Mông lập một bàn thờ cúng tổ tiên tại chính giữa ngôi nhà trước bàn thờ thần tài “xử cang,” sau lễ cúng bàn thờ tổ tiên được bỏ đi.
Một vòng đời của người Mông, từ khi sinh ra đến khi nhắm mắt về với tổ tiên đều trải qua rất nhiều nghi lễ độc đáo: lễ đặt tên, lễ lại tên đệm, lễ cưới, tang ma... Trong đó, lễ tang và lễ đặt tên con là những nghi lễ có ý nghĩa quan trọng.
Lễ đặt tên khá đơn giản, đứa trẻ sau khi sinh ra được 3 ngày sẽ được gia đình và dòng họ tổ chức lễ gọi hồn và đặt tên. Lễ tang với nhiều nghi lễ khá phức tạp thể hiện đạo lý, sự tri ân giữa người sống với người đã khuất.
Do đặc điểm cư trú biệt lập, người Mông ít có quan hệ với dân tộc khác. Người Mông ở Yên Bái được tổ chức điều hành theo dòng họ khép kín, có quy định, ký hiệu riêng, mang tính quy ước cộng đồng thừa nhận và phải tuân thủ nghiêm ngặt.
Lễ cúng ruộng của người Mông ở Mù Cang Chải, cây lâu được cắm trên ruộng với hy vọng cây lúa sẽ sống tươi tốt. (Ảnh: Tuấn Anh/TTXVN)
Dòng họ người Mông là nơi duy trì và lưu truyền phong tục, tập quán. Người Mông ở Yên Bái có nhiều họ, mỗi họ có nhiều dòng, mỗi dòng có nhiều chi khác nhau. Các gia đình cùng một dòng họ thường ở những cụm gần nhau.
Theo nghệ nhân dân gian Vàng A Vừ, thôn Pang Càng, xã Suối Giàng, huyện Văn Chấn (Yên Bái), dòng họ người Mông có phạm vi cố kết rất rộng, bao gồm tất cả những người cùng họ, không phân biệt cư trú ở đâu.
Người Mông ở Yên Bái có thể nhận người cùng họ ở các tỉnh khác làm anh em. Người cùng họ khi đã nhận nhau được xem như anh em ruột thịt và không được phép kết hôn với nhau.
Cùng với văn hóa phi vật thể, người Mông ở Yên Bái còn có các loại hình văn hóa vật thể cũng rất độc đáo như ẩm thực; kiến trúc nhà ở; nghề truyền thống...
Nhà nghiên cứu dân gian Nguyễn Mạnh Hùng, Chi hội trưởng Chi hội Văn học dân gian tỉnh Yên Bái cho biết, người Mông ở Yên Bái có nghề rèn rất nổi tiếng với kỹ thuật cao như rèn dao, cuốc, tự đúc lưỡi cày và đồ trang sức của phụ nữ, đúc nhạc ngựa, chuông bò...
Đồng bào còn làm các đồ dùng sinh hoạt trong gia đình bằng gỗ, đan lát bằng tre, mây rất đẹp và tinh tế.
Nghề dệt thổ cẩm là một trong những nét văn hóa lâu đời, đặc sắc nhất của người Mông ở Yên Bái. Thứ vải dệt từ sợi cây lanh, được làm hoàn toàn thủ công với nhiều công đoạn cầu kỳ.
Sau công đoạn dệt, người phụ nữ Mông bắt đầu công đoạn dùng kỹ thuật in, vẽ sáp và thêu để hoàn thiện sản phẩm thổ cẩm độc đáo. (Ảnh: Tuấn Anh/TTXVN)
Họa tiết hoa văn trên nền trang phục Mông chủ yếu là các hoa văn hình học được làm thủ công, thể hiện sự khéo léo, tài năng của người phụ nữ Mông nơi đây. (Ảnh: Tuấn Anh/TTXVN)
Theo quan niệm của người Mông, trang phục chính thống của cả nam và nữ phải làm từ loại vải này, nhất là trang phục cho người đã khất. Vì thế, phụ nữ Mông từ khi còn nhỏ đã được bà hoặc mẹ dạy cho cách dệt vải.
Người Mông ở Yên Bái còn có một phong tục mang nhiều ý nghĩa đó là xuống chợ phiên, nhất là những phiên chợ tết rực rỡ sắc màu thổ cẩm vào dịp cuối năm. Đồng bào Mông thường tổ chức ăn tết sớm hơn Tết Nguyên đán 1 tháng, họ từ các bản xa thường xuống chợ từ rất sớm.
Xuống chợ với họ không chỉ là để bán đi những sản vật của núi rừng và mua về các nhu yếu phẩm cho sinh hoạt gia đình mà còn là dịp đi chơi chợ để gặp gỡ, hẹn hò, giao lưu, trổ tài múa khèn với nhau... Đi chợ phiên từ lâu đã trở thành nét đẹp văn hóa của người Mông nơi vùng cao Yên Bái./.
Theo Tiến Khánh (TTXVN/Vietnam+)
https://www.vietnamplus.vn/nhung-net-dac-sac-trong-van-hoa-dong-bao-dan-toc-mong-o-yen-bai/764970.vnp